15 thg 3, 2012

Công nghệ Sinh thái - Giải pháp mới cho quản lý dịch hại cây trồng

Xem hình

Thuật ngữ "Hệ sinh thái" phát triển song song với chương trình IPM tại VN trong suốt nhiều năm qua. Năm 2010, Cục BVTV triển khai chương trình " Công nghệ sinh thái" dựa trên cơ sở IPM. Vậy " Công nghệ sinh thái" là gì và cách triển khai như thế nào? Thông tin này cung cấp cho CBKT các kiến thức cơ bản.
1.      KHÁI NIỆM “CÔNG NGHỆ SINH THÁI”
 Công nghệ sinh thái “ecological engineering” là thuật ngữ được Nhà sinh thái học Mỹ, Dr Odum sử dụng đầu tiên năm 1962 và được hiểu như là “  Sự thao tác của con người về môi trường bằng cách sử dụng một khối năng lượng bổ sung nhỏ để điều khiển một hệ thống mà trong đó các nguồn năng lượng chính yếu vẫn đang tiếp tục được huy động đến từ  nguồn tài nguyên tự nhiên”.
Những năm gần đây, Mitsch and Jorgensen (1989) đã xác định Công nghệ sinh thái như là “ Sự kết cấu của xã hội loài người với môi trường tự nhiên của nó vì sự lợi của cả đôi bên”, đó chính là sự  thiết kế lại hệ thống ruộng lúa sao cho kết cấu giữa thực vật (Flora) và động vật (Fauna) một cách hài hòa và  phong phú. Từ đó tạo được chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn trong sự biến động nhưng cân bằng. Các hoạt động này còn được gọi là “Dịch vụ sinh thái” (Ecological Services). Từ chuỗi dịch vụ sinh thái này,  các thiên địch sẽ tấn công các loài sâu hại và giữ mật số của dịch hại ở mức thấp nhất không gây ra sự mất mát năng suất và con người không cần phải sử dụng thuốc trừ sâu.
Ngày nay, nếu con người có thể áp dụng thành công “Công nghệ di truyền” (genetic engineering) để điều khiển bộ gen của cây trồng nhằm tạo ra các giống cây mới có đặc tính mong muốn, thì tương tự, cũng có thể áp dụng công nghệ sinh thái (ecological engineering) để kiến thiết đồng ruộng theo nhu cầu của hệ sinh thái . Chúng ta sử dụng quan điểm “Dịch vụ sinh thái” để bổ sung cái còn thiếu trong hệ sinh thái nhằm thu hút năng lượng ( thiên địch đến diệt trừ sâu hại cây trồng) trong tự nhiên để tạo sự cân bằng bền vững trong hệ sinh thái  (đôi bên cùng có lợi)
Trên cơ sở  đó, các nhà Khoa học của Viên nghiên cứu lúa quốc tế IRRI đã đưa ra các mô hình quản lý dịch hại nông nghiệp nói chung và dịch hại lúa nói riêng. Nội dung chính của mô hình Công nghệ sinh thái là việc trồng các loại cây có hoa  trên các bờ ruộng. Cây hoa này có phấn và  mật sẽ thu hút  các loài thiên địch đến cư trú và sinh sản  vì ở giai đoạn trưởng thành chúng cần ăn thêm mật và phấn hoa để bổ sung năng lượng cho sự sinh sản. Sự hiện diện của thiên địch sẽ giúp khống chế sự tấn công của sâu hại. Trồng và chăm sóc các loài cây nhỏ có nhiều hoa và hoa phát triển quanh năm sẽ thu hút nhiều côn trùng có ích.  
2.      NHỮNG LỢi ÍCH CỦA MÔ HÌNH “CÔNG NGHỆ SINH THÁI”
- Thu hút ong mật và ong ký sinh đến bảo vệ ruộng lúa
            Các loài ong ký sinh có xu tính ăn thêm mật hoa nên chúng bị thu hút đến các mô hình Công nghệ sinh thái. Ngoài ra nhện, kiến ba khoang… cũng phát triển mạnh trong hệ sinh thái cân bằng và chúng được sử dụng như một đội quân bảo vệ lúa, trực tiếp tấn công các loài sâu hại,  tạo sự đa dạng sinh học, bảo vệ sự cân bằng hệ sinh thái.
- Giảm chi phí thuốc trừ sâu
Không cần phải phun thuốc cho cánh đồng có hoa trồng dọc theo bờ ruộng vì ong ký sinh thuờng xuyên bay từ ruộng vào bờ tìm mật hoa (thức ăn)  sau đó bay trở lại ruộng tìm sâu hại để đẻ trứng (ký sinh theo bản năng). Đặc biệt nhất là trứng rầy nâu sẽ bị ong kí sinh hơn 80% ở những ruộng sử dụng “công nghệ sinh thái” theo kết quả của Trung tâm BVTV phía Nam  thực hiện tại Tiền Giang vụ ĐX 09-10.
- Tăng lợi nhuận
Ngoài tiết kiệm chi phí  sử dụng thuốc trừ sâu, một nguồn lợi đuợc tăng lên từ việc trồng cây mè, cây đậu bắp hoặc cây ngắn ngày nào khác cho nhiều hoa. Đặc biệt, mô hình này rất thích hợp đối với những vùng lúa gần khu vực nuôi trồng thủy sản hay khu ruộng nuôi trồng kết hợp lúa – cá, lúa-tôm.   
-Tạo cảnh quan nông thôn
Bờ ruộng có nhiều hoa với màu sắc sặc sỡ, tạo mỹ quan cho cánh đồng , điều đó cũng làm cho người nông dân phấn khởi, thoải mái khi đi làm công việc đồng áng..
3.CÁC BƯỚC THỰC HIỆN MÔ HÌNH
1. Chọn hoa:  Nên chọn loại hoa dễ trồng, ít tốn công chăm sóc, ra hoa quanh năm và nhiều hoa, có nhiều màu sắc sặc sỡ. Một số loại cỏ có hoa được chọn để triển khai trong việc nhân rộng mô hình là: Sài đất (Wedilia chinensis), Xuyến chi (Bidens pilosa), cúc Gót (Colobogyne sp.) và cỏ Cứt lợn (Agelatum conyzoides). Đặc điểm là chúng có nhiều hoa với mật, phấn hoa và hương thơm thu hút nhiều côn trùng thiên địch mà lại dễ trồng, ít chăm sóc, không che rợp lúa và ra hoa quanh năm.
Ngoài ra, tuỳ điều kiện cụ thể ở địa phương , bà con nông dân  cũng có thể trồng một số loại cây có giá trị kinh tế như cây mè, cây đậu xanh, đậu bắp.
2. Kỹ thuật trồng hoa
2.1  Nhân giống hoa
- Nhân giống hoa trước khi xuống giống lúa.
- Gieo hạt trực tiếp hoặc trong bầu  hoặc giâm cành tùy theo loại hoa trồng.
2.2  Cách trồng
- Khoảng cách trồng thay đổi tùy theo loại cây hoa hay cây trồng khác.
- Trồng hoặc gieo trực tiếp dọc theo hai bên bờ ruộng trước hoặc ngay sau khi sạ lúa.
2.3  Chăm sóc cây hoa
Trong giai đoạn đầu, sau khi trồng cây hoa cần đuợc tưới nước để có thể phát triển. Cần bảo vệ tránh sự phá hoại của trâu bò hay gà, vịt nếu ruộng gần nhà.
Khi thu hoạch lúa, những cây có khả năng tái sinh như xuyến chi, đậu bắp.. nên cắt chừa gốc để cây ra chồi mới sẽ đỡ tốn công trồng lại.
3.  Gieo sạ lúa
Làm đất kỹ, quản l‎ý tốt cỏ dại ngay từ đầu vụ. Sử dụng giống tốt , sạ lúa đồng loạt đúng theo lịch thời vụ của địa phuơng, sạ thưa sạ hàng, bón phân cân đối NPK.
4. Chăm sóc lúa
- Thực hiện theo chuơng trình  “ Tham canh lúa cải tiến SRI”, “3 Giảm 3 Tăng” hay “1 Phải 5 Giảm”.
-  Áp dụng tốt chương trình IPM
- Hạn chế tối đa sử dụng thuốc trừ sâu để bảo vệ thiên địch, con người và môi trường.
3.        ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CÔNG NGHỆ SINH THÁI TẠI PHÚ YÊN
Từ năm 1992, khi chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) bắt đầu triển khai tại Phú Yên thì người ND đã hiểu về sự cân bằng các yếu tố trong Hệ sinh thái và Thiên địch là yếu tố quan trọng để tiêu diệt sâu hại nhằm tạo ra sự cân bằng đó. Chương trình  IPM đã làm thay đổi tập quán canh tác của ND trong toàn tỉnh tạo nên một biện pháp canh tác mới với sự hạn chế tối đa hóa chất BVTV.
Trên cơ sở kết quả của IPM, chúng ta có thể triển khai các mô hình Công nghệ sinh thái bằng cách trồng các loại cây có hoa trên bờ ruộng để chủ động thu hút Thiên địch đến cư trú và phát triển.
Hiện nay, Phú Yên đang phải đối mặt với sự gây hại của Rầy nâu và Rầy lưng trắng đồng nghĩa với việc đồng lúa Phú Yên có nguy cơ cao với hai bệnh virus là Vàng lùn-lùn xoắn lá và Lùn sọc đen. Đẻ hạn chế tác hại của hai của chúng thì việc quản lý Rày là cần thiết và mô hình Công nghệ sinh thái là biện pháp quản lý Rầy tốt nhất hiện nay.
 Theo: cục bảo vệ thực vật phú yên

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Cảm ơn các bạn đã đọc bài viết! Nếu có thắc mắc, nhận xét, phản hồi các bạn vui lòng nhận xét

:) :( :)) :(( =))